Như bác Hồ đã nói: “Vua Hùng đã có công dựng nước Bác chúa ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Có thể thấy được các Vua Hùng chính là khởi đầu dấu ấn tượng cho việc thành lập nước Việt Nam với tư cách là một Quốc gia có chủ quyền. Việc tưởng nhớ đến các vua Hùng có thể thấy được như là nhớ đến cội nguồn cũng như nhớ đến ông cha ta đã có công mở mang bờ cõi đất nước là nét văn hóa tốt đẹp cần được gìn giữ. Bài viết này AIVA sẽ cùng bạn tìm hiểu lịch sử vua Hùng qua bài viết này nhé!
VUA HÙNG LÀ AI ?
Theo nghiên cứu của các nhà lịch sử học thì vua Hùng Vương (雄王) hay Vua Hùng (chữ Nôm: 𤤰雄) chỉ các vị vua của nước Văn Lang của người Lạc Việt. Những câu chuyện của các vị vua Hùng không có trong chính sử mà nằm trong các truyền thuyết dân gian của người Việt được kể lại qua khá nhiều đời.
Với người Việt Nam thì các vị vua Hùng có đại diện cho tổ tiên và truyền thống dựng nước và giữ nước. Đây cũng là niềm tự hào về nền văn minh đậm đà bản sắc riêng trong hàng nghìn năm.
SỰ TÍCH VUA HÙNG
Theo nhiều sách cổ có ghi chép về sự tích Vua Hùng như sau. Ngày xưa Viêm Đế có cháu ba đời họ tên Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghị. Sau Đế Minh nhân lúc đi tuần tại Phương Nam có đến Ngũ Lĩnh thì phải lòng và kết duyên vợ chồng với người con gái tên Vụ Tiên và sinh ra người con tên là Lộc Tục. Lộc Tục thông minh sáng dạ nên được Đế Minh hết mực yêu quý và muốn cho nối ngôi. Tuy nhiên Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh và do đó Đế Nghi đã được nối ngôi và cai quản phương Bắc là nước Xích Thần và Phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai quản phương Nam với các bộ tộc Bách Việt gọi là nước Xích Qủy.
Khi Kinh Dương Vươn du hành xuống Thủy Phủ đã gặp con gái của Long Vương Động Đình Quân tên là Thần Long Long Nữ và sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân khi lớn lên đã thay cha mình cai trị nước Xích Qủy còn Kinh Dương Vương không biết rõ đã mai danh ẩn tích ở đâu sau khi Truyền Ngôi vị. Đế Nghi truyền ngôi cho con trai là Đế Lai cai trị phương Bắc, Đế Lai nhân thiên hạ vô sự mà đi chu du khắp nơi, đi qua nước Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy phủ, liền lưu con gái của mình là Âu Cơ ở lại đó.
Lạc Long Quân trở về, thấy Âu Cơ xinh đẹp, liền biến hóa thành chàng trai phong tú mỹ lệ, Âu Cơ lúc này mới đem lòng cảm mến, Lạc Long Quân liền rước nàng về núi Long Trang. Hai người ở với nhau một năm, sinh ra bọc trăm trứng, sinh ra trăm người con trai anh dũng phi thường.
Lạc Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ, Âu Cơ vốn là người Bắc quốc, nhớ nhà liền gọi Long Quân trở về. Âu Cơ nói với Lạc Long Quân:
“Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với Quân, sinh được một trăm con trai mà không gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng, không vợ, một mình vò võ”.
Lúc này, Lạc Long Quân mới bảo rằng:
“Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc; nàng là giống Tiên, người trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp mà lại có con nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con về Thủy phủ, phân trị các xứ, năm mươi con theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe không được bỏ nhau”.
Âu Cơ cùng năm mươi người con trai ở tại Phong Châu, tự suy tôn người con trưởng lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương. Từ đó Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đóng đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu.
18 ĐỜI VUA HÙNG VƯƠNG
Theo Đại Việt sử lược và nhiều tài liệu khác, triều đại Hùng Vương được truyền qua 18 đời, gồm những vị sau.
- 1. Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr. TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL).
- 2. Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr. TL), lên ngôi 33 tuổi, ở ngôi tất cả 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến năm Bính Thìn (2525 tr. TL).
- 3. Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi 272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr. TL.
- 4. Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL).
- 5. Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL).
- 6. Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi khi 29 tuổi, ở ngôi tất cả 81 năm, từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL).
- 7. Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL).
- 8. Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1332 tr. TL).
- 9. Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi khi 45 tuổi, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr. TL.
- 10. Hùng Uy Vương, húy Hoàng Long Lang, trị vì 90 năm, từ 1251 đến 1162 tr. TL.
- 11. Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL).
- 12. Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL).
- 13. Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), lên ngôi khi 23 tuổi, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL).
- 14. Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổi, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 tr. TL.
- 15. Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661 tr. TL).
- 16. Hùng Tạo Vương, húy Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), ở ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Thìn (569 tr. TL).
- 17. Hùng Nghị Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9 tuổi, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL).
- 18. Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 tr. TL) đến năm Quý Mão (258 tr. TL).
TRUYỀN THUYẾT CÔNG LAO CỦA VUA HÙNG
Theo ghi chép thì lãnh thổ của nước Văn Lang được xác định ở khu vực đồng bằng sông Hồng và phía đông bắc giáp với Âu Việt và hía tây bắc thuộc tỉnh miền Bắc Việt Nam. Dân số của Văn Lang vào khoảng 40, 50 vạn người, chủ yếu phân bố ở khu vực trung du, hạ du sông Hồng và sông Mã.
Vua Hùng Vương sai các em trai phân trị và đặt em thứ làm Tướng võ, Tướng văn và Tướng văn được gọi là Lạc Hầu và Tướng võ gọi là Lạc Tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang và con gái được gọi là Mị Nương.
Với Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép lại phần đầu tiên đặt tên là Kỷ Hồng Bàng thị, 3 tiết mục là KINH Dương Vương, Lạc Long Quân và Vua Hùng Vương.
Nhiều ghi chép có đưa ra những thông tin về việc vua Hùng phía tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), phía bắc đến hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc), phía nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, là nhầm lẫn với nước Xích Quỷ trong truyền thuyết của người Bách Việt cổ.
Nước Văn Lang thuộc tộc người Lạc Việt chỉ là một trong số những tộc người Bách Việt, và cũng là tổ tiên của người Kinh ngày nay. Lạc Việt cùng với Âu Việt là 2 tộc người Bách Việt sống tại vùng đất phía nam. Sau này An Dương Vương (hay Thục Phán), vua nước Âu Việt (nằm ở phía tây bắc nước Văn Lang), đánh bại vua Hùng của nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc. Dân số Âu Lạc thời đó cũng chỉ khoảng 70 vạn, 80 vạn người. Nếu lãnh thổ Văn Lang muốn giáp Ba Thục, Tứ Xuyên và Hồ Động Đình, Hồ Nam thì phải bao gồm cả các tỉnh Quý Châu (diện tích 176.167 km²) và Hồ Nam (diện tích 210.000 km²), phần lớn tỉnh Vân Nam (diện tích 394.000 km²), một phần tỉnh Quảng Tây (diện tích 236.700 km²) của Trung Quốc.
ĐỀN THỜ VUA HÙNG NẰM Ở ĐÂU ?
Hiện nay tại Việt Nam có khá nhiều di tích thờ vua hùng. Tuy nhiên gốc gác thờ các vị Vua Hùng được ghi trong sử sách vẫn là Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương Thành Phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ. Đây chính là nơi thờ cúng các vị Vua Hùng đã có công dựng nước và là tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Cách thủ đô Hà Nội 90km nên từ hà nội du khách có thể đến đền Hùng bằng đường bộ theo quốc lộ 2 hoặc tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai.
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã lấy ngày giỗ Tổ Hùng Vương thành một ngày lễ chính của dân tộc nhằm tưởng nhớ biết ơn đến các vị vua Hùng để đời đời con cháu nhớ ơn và noi gương. Nhờ tưởng nhớ đến các bậc vua Hùng mà con cháu chúng ta sẽ biết quý trọng nền độc lập nước nhà từ đó góp phần xây dựng đất nước to đẹp hơn và phát triển hơn.
Hy vọng với những chia sẻ trên đây của chúng tôi xoay quanh 18 vị vua Hùng và đèn thờ Vua Hùng Vương đa giúp bạn hiểu hơn về những vị anh Hùng có công dựng nước Việt Nam ta. Từ đó có sự nhớ ơn và mở mang bờ cõi đất Việt cũng như tự hào dòng dõi tiên rồng hiện nay.
>>> Sự tích 12 con giáp? Truyền thuyết cuộc chạy đua 12 con giáp?
Bài viết mới cập nhật
Bạc mạ vàng là gì? Có nên sử dụng trang sức bạc mạ vàng không?
Việc sở hữu trang sức bằng vàng là mong ước của ...
Vì sao nói Ngọc dưỡng Tâm – Trầm dưỡng tính ?
Trong thế giới tự nhiên như hiện nay thì yếu tố ...
Quả cầu Obsidian trắng: Tác dụng và ý nghĩa phong thủy
Trong các vật phẩm phong thủy hiện nay thì những quả ...
Cách chọn mua cây đào bằng đá chuẩn phong thủy
Cây đào đá phong thủy là một trong những vật phẩm ...